Cùng chúng ta tìm hiểu về quy định của pháp luật về đình chỉ điều tra trong vụ án hình sự theo Điều 230 BLTTHS. Đình chỉ điều tra là một quá trình chấm dứt mọi hoạt động tố tụng trong một vụ án hình sự. Điều này có nghĩa là sau khi quyết định đình chỉ, không có hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử nữa đối với vụ án và bị can. Các cơ quan và người thẩm quyền sẽ căn cứ vào từng giai đoạn của vụ án để quyết định đình chỉ điều tra.
- Quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
- Thẩm quyền của Tòa án trong vụ việc về hôn nhân và gia đình
- Vi phạm điều cấm trong đấu thầu xử phạt như thế nào?
- Quy định về lập biên bản trong vi phạm hành chính
- Tìm hiểu nội dung Điều 224 BLHS năm 2015 về “Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”
Đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra
Trong giai đoạn điều tra vụ án, Cơ quan điều tra sẽ quyết định đình chỉ điều tra trong các trường hợp sau đây:
Bạn đang xem: Đình Chỉ Điều tra Trong Vụ Án Hình Sự theo Điều 230 BLTTHS
- Có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự.
- Hết thời hạn điều tra vụ án mà không có chứng cứ bị can đã thực hiện tội phạm.
Theo Điều 230 BLTTHS 2015, đình chỉ điều tra được áp dụng trong các trường hợp trên. Có nghĩa là nếu vụ án đạt đủ một trong những căn cứ này, Cơ quan điều tra sẽ đình chỉ điều tra và chấm dứt mọi hoạt động điều tra trong vụ án.
Hình ảnh minh họa: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự
Các căn cứ để đình chỉ điều tra
Theo quy định của BLTTHS, đình chỉ điều tra có thể được áp dụng trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, người có đơn yêu cầu khởi tố rút đơn yêu cầu (khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015)
Khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định cụ thể các tội danh tại BLHS 2015 có thể khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại. Đối với trường hợp người bị hại rút đơn thuộc một trong tội danh đã được quy định, Cơ quan điều tra chỉ được áp dụng quy định đình chỉ điều tra. Trong trường hợp này, Cơ quan điều tra phải đình chỉ điều tra và chấm dứt mọi hoạt động điều tra trong vụ án.
Thứ hai, có một trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự (quy định tại Điều 157 BLHS 2015)
Xem thêm : 06 điều thú vị về giám đốc thẩm
Điều 157 BLTTHS quy định các trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự, bao gồm:
- Không có sự việc phạm tội.
- Hành vi không cấu thành tội phạm.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Người đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật.
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Tội phạm đã được đại xá.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Thứ ba, đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm
Hết thời hạn điều tra được hiểu là sau khi đã đạt đến thời hạn tổi đa (bao gồm cả thời hạn gia hạn điều tra) do BLTTHS quy định cho Cơ quan điều tra được phép điều tra vụ án. Khi hết thời hạn điều tra mà Cơ quan điều tra không chứng minh được bị can đã thực hiện hành vi phạm tội, Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra. Đồng thời, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đối với bị can.
Thứ tư, đình chỉ theo quy định tại Điều 16 BLHS do tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội.
Thứ năm, đình chỉ theo quy định tại Điều 29 BLHS
Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Khi có quyết định đại xá.
Người phạm tội cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
- Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ sáu, đình chỉ điều tra khi có căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 91 BLHS 2015
Khoản 2 Điều 91 BLTTHS 2015 quy định:
Xem thêm : Tội cướp tài sản: Nhận diện và hình phạt
“2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này.
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này.
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.”
Với các trường hợp như phân tích trên, vụ án hình sự sẽ được đình chỉ điều tra.
Liên hệ: 0929 965 222 668 Lê Lợi – Hoàng Văn Thụ – TPBG FB: Luật sư Bắc Giang – Luật Minh Huy
Xem thêm: Miễn trách nhiệm hình sự
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư