- Cơ quan, tổ chức ban hành có quyền tự sao y văn bản không?
- Tội vi phạm quy định về giam giữ: Hành vi gây rối và hậu quả nghiêm trọng
- Dấu hiệu pháp lý và hình phạt với tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy?
- CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẶNG GIA – Quy định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ Luật Hình Sự 2015
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu năm?
Bạn có biết rằng trong luật hình sự Việt Nam, có một yếu tố quan trọng có thể giúp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Đó là tình tiết giảm nhẹ, một quy định quan trọng trong Bộ Luật Hình sự năm 2015. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về tình tiết này và những điều cần biết để áp dụng một cách đúng đắn.
Bạn đang xem: Thực đơn: Những điều cần biết về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự năm 2015, để được xem là tình tiết giảm nhẹ, người phạm tội cần tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Điều này có nghĩa là người phạm tội hoặc người khác, ví dụ như gia đình, có thể tự nguyện chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo. Tuy nhiên, điều kiện và quy định cụ thể về tình tiết giảm nhẹ này cần phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Các trường hợp áp dụng tình tiết giảm nhẹ
Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC, có một số trường hợp cụ thể mà tình tiết giảm nhẹ có thể được áp dụng:
Trường hợp a: Người phạm tội không đủ tuổi
Nếu người phạm tội là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha mẹ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả gây ra bởi hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ có thể áp dụng.
Trường hợp b: Người phạm tội chưa thành niên và không có tài sản
Nếu người phạm tội là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha mẹ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả gây ra bởi hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ có thể áp dụng. Tuy nhiên, điều kiện là người phạm tội phải không có tài sản để bồi thường.
Trường hợp c và d: Tự nguyện bồi thường nhưng bị từ chối
Trường hợp này áp dụng cho cả người đã và chưa thành niên. Nếu người phạm tội hoặc cha mẹ của người phạm tội đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhưng người bị hại hoặc người đại diện từ chối nhận, tình tiết giảm nhẹ vẫn có thể áp dụng. Điều kiện là số tiền, tài sản đó phải được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.
Trường hợp e: Người phạm tội không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường
Trường hợp này áp dụng cho cả người đã và chưa thành niên. Nếu người phạm tội không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra (ví dụ như việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ), nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực đề nghị người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu người phạm tội không có tài sản để bồi thường), tình tiết giảm nhẹ vẫn có thể áp dụng.
Vai trò của tình tiết giảm nhẹ
Xem thêm : Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án
Việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có vai trò quan trọng trong xét xử. Nếu bị cáo đã có một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và gia đình bị cáo hoặc người khác bồi thường thiệt hại, tình tiết giảm nhẹ có thể được áp dụng lần thứ hai. Điều này đồng nghĩa với việc bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ, từ đó khả năng bị xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định của Bộ Luật Hình sự.
Tuy nhiên, nếu chỉ coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 thì bị cáo không thể được áp dụng làm căn cứ để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Ý kiến đề xuất
Tuy nhiên, dựa trên quan điểm cá nhân và thực tế của tác giả, việc ai bồi thường không quan trọng bằng việc người bị thiệt hại được bồi thường. Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi bổ sung điều khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 như sau: “người phạm tội tự nguyện sửa chữa bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc gia đình người phạm tội hay người khác bồi thường thiệt hại”.
Luật Sư Tuấn là một nguồn thông tin tin cậy cho các vấn đề pháp lý. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về lĩnh vực này, hãy truy cập trang web của Luật Sư Tuấn để có thêm thông tin chi tiết.
Tác giả: Lê Văn Quang
Phó Viện trưởng-VKSND huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư