Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
- Quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư đối với tòa nhà là gì?
- Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Cách xử phạt như thế nào?
- Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356)
- Tìm hiểu nội dung Điều 170 BLTTHS năm 2015 về “Nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra”
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có những quy định mới về bị hại và nguyên đơn dân sự. Việc xác định đúng tư cách tham gia tố tụng sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và giải quyết các vụ án hình sự đúng pháp luật.
Bạn đang xem: Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Bị hại: Quy định và những thay đổi
Theo Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bị hại được định nghĩa là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Tuy nhiên, theo Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị hại được định nghĩa là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Theo đó, có những điểm mới trong định nghĩa của bị hại theo BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003:
- Chủ thể bao gồm không chỉ cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức.
- Thiệt hại do tội phạm gây ra: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản và cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín.
Nguyên đơn dân sự: Định nghĩa và vai trò
Xem thêm : LUẬT ĐẠI TÂM
Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự
Cả bị hại và nguyên đơn dân sự đều có chủ thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và có những quyền như nhau theo quy định tại Điều 62, Điều 63 BLTTHS. Tuy nhiên, bị hại còn có những quyền mà nguyên đơn dân sự không có, bao gồm:
- Được tham gia tố tụng hay cả trong trường hợp không có yêu cầu
- Quyền trình bày buộc tội tại phiên tòa
- Quyền đề nghị hình phạt
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
Trên thực tế, việc xác định tư cách tham gia tố tụng không chính xác, đặc biệt là đối với cơ quan, tổ chức bị thiệt hại. Vì vậy, để phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự, cần căn cứ vào những điểm sau:
-
Về thiệt hại xảy ra:
- Bị hại: Bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là cơ quan, tổ chức).
- Nguyên đơn dân sự: Chỉ bị thiệt hại về tài sản.
-
Xem thêm : Quy trình giải quyết vụ án hình sự
Về quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra:
- Bị hại bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội là trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
- Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của cơ quan X và bị khởi tố. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì cơ quan X là nguyên đơn dân sự, nhưng theo BLTTHS năm 2015 thì là bị hại trong vụ án hình sự.
Ví dụ khác: A đánh B gây thương tích tại trụ sở cơ quan X. Hậu quả làm B bị thương còn cơ quan X cũng bị hư hỏng một số tài sản. A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Trong trường hợp này, cơ quan X là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự nếu có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Với những quy định rõ ràng như trên, việc phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trở nên dễ dàng hơn.
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư