Nhận thức và áp dụng Khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015

Rate this post

Trong thực tế áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999, chúng ta đã nhận thấy rằng có những trường hợp người phạm tội phạm những hành vi ít nghiêm trọng hoặc có tổ chức phạm tội do không cố ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự hoặc tài sản. Có những tội vi phạm ví dụ như vi phạm luật giao thông, tội gây thương tích không cố ý,… Người phạm tội sau khi nhận ra sai lầm của mình thường có sự ăn năn, hối cải và tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Đồng thời, giữa người phạm tội và bị hại hoặc đại diện hợp pháp đã hòa giải và có trường hợp đến cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự mặc dù việc này là không cần thiết. Việc này không chỉ không đạt được mục đích giáo dục của luật hình sự mà còn gây lãng phí thời gian và tiền bạc của nhà nước. Vì lẽ đó, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm những trường hợp có thể miễn trách nhiệm hình sự. Mục tiêu của việc bổ sung những trường hợp này là khuyến khích người phạm tội có những hành động tích cực như ăn năn, hối cải, khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại cho bị hại hoặc đại diện của bị hại. Những nỗ lực đó nhằm giảm bớt hậu quả của tội phạm và thể hiện ý thức và trách nhiệm của người phạm tội. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cần ghi nhận những nỗ lực này để xem xét có nên miễn trách nhiệm hình sự hay không. Để hiểu đúng và đầy đủ về quy định tại Khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự, chúng ta cần phân biệt và làm rõ những khái niệm trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, tội phạm và phạm tội dưới góc độ pháp lý.

Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu sự kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và chịu mang án tích. Trách nhiệm hình sự được thực hiện thông qua hình phạt do Tòa án quyết định đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, mục tiêu của tư pháp hình sự và phòng ngừa tội phạm có thể được đạt được mà không cần truy cứu trách nhiệm hình sự của người có lỗi. Vì vậy, luật hình sự có quy định về miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là không buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người thực hiện hành vi có dấu hiệu của một cấu thành tội phạm. Ngược lại, việc một hành vi không có dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể loại trừ khả năng truy cứu trách nhiệm. Không thể đặt vấn đề miễn trách nhiệm hình sự đối với người không có nghĩa vụ chịu trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Trong thực tế điều tra truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế phi hình sự thuộc các ngành luật tương ứng như buộc bồi thường thiệt hại, xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật hành chính, bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật lao động. Những biện pháp này có thể được coi là biện pháp hỗ trợ nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội và thể hiện nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự.

Khoản 3 Điều 29 – Bộ luật hình sự năm 2015 đã đưa ra khái niệm “người thực hiện tội phạm”, một khái niệm hoàn toàn khác với khái niệm “người phạm tội” được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 của Điều 29 Bộ luật hình sự. Vì vậy, chúng ta cần phân biệt rõ ràng để hiểu đúng nội dung và ý nghĩa của quy định. Khái niệm về tội phạm bao gồm các yếu tố như hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại bộ luật hình sự, lỗi của hành vi có thể là cố ý hoặc vô ý, và chủ thể thực hiện hành vi (người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại có năng lực trách nhiệm hình sự). Trong khi đó, phạm tội là hành động để thực hiện tội phạm và phải qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử mới xác định hành vi đó có phải là tội phạm hay không. Không phải mọi hành vi đều là tội phạm, ví dụ như người thực hiện hành vi phạm tội không có năng lực trách nhiệm hình sự thì hành vi đó không bị coi là tội phạm. Ngoài ra, trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc sự kiện bất ngờ, phạm tội chỉ là một phương thức để thực hiện tội phạm và là một phần trong tội phạm. Để xác định liệu hành vi đó có phải là tội phạm, chúng ta cần đi qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Do đó, để nhận thức và áp dụng chính xác Khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015, các cơ quan tiến hành tố tụng cần khởi tố vụ án và điều tra xác minh, làm rõ căn cứ tội phạm, nỗ lực tích cực của bị can như bồi thường, khắc phục hậu quả, sự ăn năn về hành vi phạm tội, việc hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại, tình hình trật tự an toàn xã hội và các yếu tố khác tại địa phương. Qua đó, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ quyết định có miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội hay không.

Luật Sư Tuấn

Related Posts

Thực đơn: Những điều cần biết về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Có thể bạn quan tâm Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm doạt tài sản Tìm…

Các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra hình sự

Có những trường hợp mà cơ quan điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra hình sự. Hãy cùng tìm hiểu…

Vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 51 BLHS

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo…

Cần có hướng dẫn cụ thể về áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Quý vị luật sư có biết rằng khi xét xử vụ án đánh bạc tại một quán vịt cỏ ở thành phố Y, tỉnh V vào ngày…

Tìm hiểu về Biện pháp khiển trách theo Điều 93 BLHS năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017)

Đầu tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về biện pháp khiển trách và cách nó được áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội….

Phần mềm hợp đồng điện tử iContract – Sự tin dùng của nhiều DN FDI

Nghị định 125/2020/NĐ-CP ban hành ngày 19/10/2020 đã đặt ra quy định mới về mức phạt chậm nộp thuế TNCN (thu nhập cá nhân) và tăng tiền…