- Tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội theo quy định Bộ luật Hình sự
- Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
- Một số vướng mắc về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và kiến nghị hoàn thiện
- Nghị định 46/2016/NĐ-CP: Phạt tiền lái xe say rượu từ 1/8
- Quy định Điều 147 trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự
Trong hệ thống pháp luật của nước ta, có rất nhiều biện pháp ngăn chặn được đưa ra để bảo đảm an ninh, trật tự xã hội và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia vào quá trình xét xử và điều tra. Một trong những biện pháp quan trọng đó chính là “cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bài viết này sẽ tìm hiểu chi tiết về biện pháp này theo quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Bạn đang xem: Cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì?
Theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, cấm đi khỏi nơi cư trú là một biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với các bị can, bị cáo khi họ có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Mục đích chính của biện pháp này là đảm bảo sự có mặt của các bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án.
Nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú
Khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo phải tuân thủ một số nghĩa vụ quan trọng như sau:
- Không được rời khỏi nơi cư trú trừ khi có sự cho phép từ cơ quan đã ra lệnh cấm;
- Phải có mặt đúng thời gian và địa điểm ghi trong giấy triệu tập, trừ khi có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan;
- Không được bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
- Không được mua chuộc, cưỡng ép hay xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật;
- Không được tiêu huỷ, giả mạo chứng cứ, tài liệu hoặc đồ vật có liên quan đến vụ án;
- Không được đe dọa, khống chế hay trả thù các nhân chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân của họ.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ trên, họ có thể bị tạm giam.
Thẩm quyền quyết định và thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú
Theo quy định tại khoản 3 của Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, những người sau đây có thẩm quyền quyết định ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú:
- Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án và Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Xem thêm : Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không được vượt quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn từ khi tuyên án cho đến khi người đó đi chấp hành án phạt tù.
Đồng thời, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền địa phương nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền địa phương hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý và theo dõi. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời rời khỏi nơi cư trú, họ phải được sự đồng ý của chính quyền địa phương nơi bị can, bị cáo cư trú và phải có giấy phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Tổng kết
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo sự hiện diện của các bị can, bị cáo trong quá trình xét xử và điều tra. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, biện pháp này áp dụng cho tất cả các loại tội phạm và yêu cầu các bị can, bị cáo tuân thủ các nghĩa vụ quy định. Đồng thời, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cần thông báo cho chính quyền địa phương và đơn vị quân đội liên quan để quản lý và theo dõi.
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư