Tội trộm cắp tài sản: Sự thay đổi từ Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Rate this post

Để đáp ứng nhu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với thực tiễn, Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong quy định về yếu tố định tội của tội “Trộm cắp tài sản”, khắc phục được những hạn chế của Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009).

Một số ý kiến phân tích về các điểm mới trong quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

So sánh quy định của Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 và Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 về tội “Trộm cắp tài sản”

  • Tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), mức hình phạt bị cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm được giữ nguyên. Tuy nhiên, đã có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn về các yếu tố định tội trong trường hợp tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng.

  • Tình tiết định tội “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt” được nêu rõ. Tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” đã được sửa đổi theo hướng liệt kê cụ thể các điều luật. Tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” đã được thay thế bằng quy định cụ thể “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Bổ sung thêm các tình tiết “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” và “tài sản là di vật, cổ vật”.

  • Tại Khoản 2 Điều 173, mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù đã giữ nguyên. Tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả nghiêm trọng” đã bị bỏ đi và thay bằng tình tiết “tài sản là bảo vật quốc gia”.

  • Tại Khoản 3 Điều 173, mức hình phạt 07 năm đến 15 năm tù đã giữ nguyên. Tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả rất nghiêm trọng” đã bị bỏ đi và thay bằng tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”.

  • Tại Khoản 4 Điều 173, hình phạt tù chung thân đã bị bỏ đi, chỉ quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm. Tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” đã bị bỏ đi và thay bằng tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.

  • Khoản 5 Điều 173 vẫn giữ nguyên quy định về hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

Việc thay thế các tình tiết định tội, định khung “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng những quy định cụ thể giúp tránh việc áp dụng tùy tiện, không thống nhất.

Xác định tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản”

Để xác định tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản”, trước hết chúng ta phải tìm hiểu quy định về tài sản tại Bộ luật dân sự 2015. So với Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 đã có những sửa đổi trong quy định về tài sản.

Theo Điều 105 Bộ luật dân sự 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Bộ luật này cũng phân loại tài sản thành bất động sản và động sản, gồm cả tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Bộ luật dân sự 2015 đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn về tài sản, tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật.

Tuy nhiên, không phải mọi loại tài sản đều là đối tượng tác động của tội trộm cắp. Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp phải có chủ sở hữu hoặc đang có sự quản lý, phải được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể, hữu hình, có giá trị và giá trị sử dụng.

Các tài sản thuộc đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” bao gồm: tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhà nước; tài sản đang trong vòng kiểm soát của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, kể cả tài sản do chiếm hữu không hợp pháp; tài sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình; tài sản là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Các trường hợp không thuộc đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” bao gồm: quyền tài sản; bất động sản; tài sản vô chủ; tài sản bị rơi, bị bỏ quên, thất lạc; các tài sản không thuộc sở hữu của một chủ thể cụ thể và không có giá trị nếu không được khai thác, sử dụng; giấy tờ có giá trị nhưng không trực tiếp chuyển thành tiền được; tài sản thuộc các loại có tính chất và công dụng đặc biệt; bất động sản và động sản hình thành trong tương lai.

Việc xác định tài sản là đối tượng tác động của tội “Trộm cắp tài sản” đòi hỏi căn cứ vào các điều kiện cụ thể trong từng trường hợp. Cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan và căn cứ vào các điều kiện cụ thể để xác định tài sản là di vật, cổ vật; tài sản là phương tiện sống chính của người bị hại và gia đình.

Hy vọng những ý kiến trên sẽ giúp ích cho các đồng nghiệp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.

Nguyễn Thùy Trang – VKSND huyện Việt Yên

Để tìm hiểu thêm về luật sư và các vấn đề pháp luật, hãy ghé thăm Luật Sư Tuấn.

Related Posts

Thực đơn: Những điều cần biết về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Có thể bạn quan tâm Định tội danh theo Điều 314 Bộ Luật Hình sự: Cần sự hướng dẫn cụ thể Quy định về trình tự giải…

Các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra hình sự

Có những trường hợp mà cơ quan điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra hình sự. Hãy cùng tìm hiểu…

Vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 51 BLHS

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo…

Cần có hướng dẫn cụ thể về áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Quý vị luật sư có biết rằng khi xét xử vụ án đánh bạc tại một quán vịt cỏ ở thành phố Y, tỉnh V vào ngày…

Tìm hiểu về Biện pháp khiển trách theo Điều 93 BLHS năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017)

Đầu tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về biện pháp khiển trách và cách nó được áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội….

Phần mềm hợp đồng điện tử iContract – Sự tin dùng của nhiều DN FDI

Nghị định 125/2020/NĐ-CP ban hành ngày 19/10/2020 đã đặt ra quy định mới về mức phạt chậm nộp thuế TNCN (thu nhập cá nhân) và tăng tiền…