BLHS năm 2015 đã quy định nhiều tội danh trong cùng một điều luật, ví dụ như tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Mặc dù tên điều luật có thể khác nhau nhưng nội dung của mỗi điều luật này đều quy định nhiều tội danh khác nhau.
- Dấu hiệu pháp lý và hình phạt với tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy?
- Quy định về kết luận điều tra vụ án hình sự
- Nghị định 46/2016/NĐ-CP: Phạt tiền lái xe say rượu từ 1/8
- Bàn về tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ theo Bộ luật Hình sự
- Thực đơn: Những điều cần biết về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Trong tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341 Bộ Luật Hình sự), cần phân biệt 2 hành vi là hành vi làm giả và hành vi sử dụng.
Bạn đang xem: Định tội danh theo Điều 314 Bộ Luật Hình sự: Cần sự hướng dẫn cụ thể
Đối với người sử dụng, hành vi sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả phạm vào tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Người làm giả đã cung cấp con dấu, tài liệu giả cho người sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật nên đồng phạm với người sử dụng về tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
Đối với người làm giả, hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức phạm vào tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Người sử dụng đã kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người làm giả tạo ra con dấu, tài liệu giả cho mình sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật nên đồng phạm với người làm giả về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.
Về nguyên tắc, người làm giả và người sử dụng phạm vào cả 2 tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức.
Trong BLHS năm 1985, chỉ có một tội là tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 đã tách hành vi sử dụng thành một tội độc lập, đó là tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
Xem thêm : Mức xử phạt ăn trộm nước
Tôi cho rằng việc tách hành vi làm giả và hành vi sử dụng là không hợp lý vì hành vi làm giả và hành vi sử dụng luôn đi liền với nhau. Một hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi sử dụng. Do đó, trong hầu hết các trường hợp, người làm giả và người sử dụng đều phạm vào cả 2 tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức.
Để giải quyết vấn đề này, tôi đồng ý với quan điểm của tác giả khi xác định người làm giả phạm vào tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và người sử dụng phạm vào tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
BLHS năm 2015 đã tách hành vi làm giả và hành vi sử dụng thành 2 tội danh độc lập và quy định trong cùng một điều luật. Tuy nhiên, tôi cho rằng việc tách hành vi làm giả và hành vi sử dụng là không hợp lý. Cả 2 hành vi này luôn đi liền với nhau và có mối quan hệ chặt chẽ.
Trong BLHS năm 1985, cũng đã có nhiều tội danh được quy định trong cùng một điều luật. Một số trường hợp đã được giải quyết thông qua Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986, trong đó có hướng dẫn về việc vận dụng điều luật quy định nhiều tội phạm.
Theo Nghị quyết số 04 này, khi một điều luật quy định nhiều tội phạm, có thể áp dụng một trong các cách sau:
- Xử lý theo tên của tội phạm chủ yếu mà không đề cập đến toàn bộ tên tội phạm của điều luật.
- Xử lý theo tên tội với đầy đủ các hành vi đã được quy định tại điều luật nếu các hành vi này có quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Xử lý theo tên của từng tội phạm đã được quy định tại điều luật, định hình phạt cho mỗi tội phạm và tổng hợp hình phạt theo quy định.
Vì vậy, tôi đồng ý với quan điểm của tác giả khi xác định người làm giả phạm vào tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và người sử dụng phạm vào tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
Xem thêm : Nhận thức và áp dụng Khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015
Trong trường hợp người phạm tội có hành vi làm giả con dấu, tài liệu, sau đó lại sử dụng chính con dấu, tài liệu giả đó để thực hiện hành vi trái pháp luật, người phạm tội sẽ phạm vào 2 tội, đó là tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nguyên tắc định tội danh cho trường hợp này là người phạm tội sẽ phạm vào cả 2 tội khi các tội phạm này có tính nguy hiểm độc lập và không loại trừ được lẫn nhau. Hành vi gian dối của người phạm tội trong trường hợp này đã xâm phạm đến một khách thể độc lập khác và có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi gian dối trong trường hợp thông thường.
Vì vậy, tôi không đồng ý với quan điểm của tác giả khi xác định người phạm tội phạm vào tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 Bộ Luật Hình sự.
Trong trường hợp người phạm tội có hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sau đó sử dụng chính con dấu, tài liệu giả này để gian dối chiếm đoạt tài sản, người phạm tội sẽ phạm vào cả 2 tội là tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc xác định tội danh như trên đảm bảo sự phân hóa trách nhiệm hình sự và đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Tuy vấn đề này phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau, tôi cho rằng cần có sự hướng dẫn cụ thể của liên ngành tư pháp Trung ương để áp dụng pháp luật một cách thống nhất, đảm bảo sự công bằng và tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung của pháp luật.
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư