Về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: Nội dung BLHS năm 2015 tại Điều 355
- CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẶNG GIA – Quy định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ Luật Hình Sự 2015
- Tổn thất tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp: Điều 179 BLHS năm 2015
- Phương thức và cơ quan có thẩm quyền xác định ranh giới đất đai?
- Tìm hiểu nội dung Điều 119 BLTTHS năm 2015 về “Tạm giam”
Trong Bộ Luật Hình Sự năm 2015, Khoản 1, Điều 54 quy định Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, nếu người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ theo Khoản 1, Điều 51 của Bộ Luật Hình Sự. Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 54 lại quy định rằng, trong trường hợp người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể, Tòa án có quyền quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, không bắt buộc phải nằm trong khung liền kề nhẹ hơn theo luật. Quy định này giúp giải quyết những khó khăn, vướng mắc của Tòa án khi xét xử với những trường hợp người phạm tội lần đầu, là người giúp sức, có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm nhưng vẫn bị xét xử ở khung hình phạt nặng cùng với đồng phạm khác. Điều này phản ánh tính nhân đạo và khoan hồng của chính sách hình sự, đảm bảo việc quyết định hình phạt phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội.
Bạn đang xem: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Tuy nhiên, vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng Khoản 2, Điều 54 Bộ Luật Hình Sự 2015.
Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm
Thực tế giải quyết các vụ án hình sự cho thấy, trong một số trường hợp, Tòa án đánh giá không đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Điều này đan đến việc người phạm tội không có đủ điều kiện, vi phạm nghiêm trọng Điều 54 Bộ Luật Hình Sự 2015.
Vi phạm trong áp dụng Khoản 1 Điều 54:
Xem thêm : Mua bán, vận chuyển pháo nổ trái phép, đối diện mức án nào?
Thứ nhất, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 54 để tuyên án hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, dẫn đến mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo quá nhẹ, không đủ nghiêm để răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Ví dụ: Vụ án buôn lậu xảy ra ở tỉnh N. Bị cáo C và V đã nhập khẩu 40 bộ lưu điện UPS cho công ty thông qua cửa khẩu sân bay quốc tế tỉnh N. Tuy nhiên, sau khi lô hàng được thông quan, lực lượng Hải quan phát hiện lô hàng là 200 chiếc điện thoại di động thay vì lưu điện. Giá trị của lô hàng được xác định là 3.198.000.000 đồng. Hành vi này vi phạm khoản 4 Điều 188 của Bộ Luật Hình Sự 2015 (mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm). Bị cáo V chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” theo Điều 51 của Bộ Luật Hình Sự 2015, không đủ điều kiện để áp dụng Khoản 1 Điều 54. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 08 năm tù. Sau đó, bị cáo đã kháng cáo và xin giảm nhẹ hình phạt. Bản án phúc thẩm nhận định bị cáo không có tình tiết thành khẩn khai báo tại Điều 51 và đã áp dụng kháng cáo, giảm án xuống còn 07 năm tù. Điều này là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật hình sự.
Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác không đúng quy định của pháp luật để quyết định hình phạt theo Khoản 1 Điều 54 Bộ Luật Hình Sự 2015.
Vi phạm trong áp dụng Khoản 2 Điều 54:
Tòa án đánh giá không đúng tính chất hành vi, vai trò và vị trí của người phạm tội trong vụ án có nhiều đồng phạm, dẫn đến xử phạt không đủ nghiêm đối với các bị cáo, vi phạm nghiêm trọng pháp luật hình sự.
Ví dụ: Vụ án tham ô tài sản ở tỉnh P. Các bị cáo X, Y, Z đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tổng số tiền là 2,5 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước. Hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng theo Điều 353 của Bộ Luật Hình Sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 54 để xử phạt các bị cáo từ 15 năm đến 17 năm tù, là đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, và bị cáo đã được giảm hình phạt xuống từ 12 năm đến 13 năm tù. Điều này là vi phạm nghiêm trọng pháp luật, vì các bị cáo không phải là người giúp sức nhưng có vai trò không đáng kể, nên không thể đánh giá là đáng được khoan hồng đặc biệt.
Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm
Xem thêm : Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ phần quyết định hình phạt của bản án, so sánh, đối chiếu việc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt có thỏa mãn về điều kiện và phạm vi áp dụng của Điều 54 Bộ Luật Hình Sự 2015 hay không. Nếu phát hiện Tòa án vi phạm Điều 54, áp dụng hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội, không đánh giá đúng vị trí, vai trò của người phạm tội, không đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm, thì Kiểm sát viên phải xác định rõ nội dung, tính chất, mức độ của vi phạm để đề xuất lãnh đạo Viện kháng nghị hoặc kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục, bảo đảm xử lý người phạm tội có căn cứ, đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, liên ngành tư pháp trung ương cần sớm phối hợp ban hành văn bản hướng dẫn khái niệm “người giúp sức với vai trò không đáng kể” trong vụ án hình sự để áp dụng thống nhất và tránh sai phạm hoặc lạm dụng quy định này trong thực tế.
Ths. Bùi Thanh Hằng
Vui lòng xem chi tiết bài viết tại Luật Sự Tuấn
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư