Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS) cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có định nghĩa pháp lý chính thức về “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau trong thực tiễn xét xử.
- Quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
- Luật Đại Tâm: Nhận diện và giải quyết tình huống pháp lý về tổ chức đánh bạc
- Cách Tính Tiền Phạt Chậm Nộp Thuế – Có Ví Dụ Cụ Thể
- Phân biệt tài sản chung và tài sản riêng của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân?
- Khung hình phạt tội phạm mua bán người là bao nhiêu?
1. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.1. Khái niệm về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Pháp luật hình sự Việt Nam chưa đưa ra khái niệm “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”, tạo ra nhiều quan điểm khác nhau về điều này.
Bạn đang xem: Một số vướng mắc về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và kiến nghị hoàn thiện
Quan điểm thứ nhất là: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định trong BLHS hoặc do Toà án phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Những tình tiết này có ý nghĩa làm giảm mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội” [^1^].
Quan điểm thứ hai là: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết trong một vụ án cụ thể mà nó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong một khung hình phạt” [^2^].
Quan điểm thứ ba là: “Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết không có ý nghĩa về mặt định tội, định khung hình phạt mà chỉ có tác dụng làm tăng hoặc giảm mức độ trách nhiệm hình sự trong một khung hình phạt nhất định” [^3^].
Ngoài ra, TS. Trần Thị Quang Vinh cho rằng: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng và giá trị giảm nhẹ của chúng chưa được ghi nhận trong chế tài” [^4^]. Theo đó, TS. Trần Thị Quang Vinh đã chỉ ra rằng nếu chỉ xét tình tiết giảm nhẹ là những tình tiết có ý nghĩa giảm hình phạt trong một khung hình phạt thì sẽ là thu hẹp so với chính tên gọi là khả năng ảnh hưởng của tình tiết giảm nhẹ đến trách nhiệm hình sự. Bởi vì, nội dung của trách nhiệm hình sự như đã đề cập ở trên không chỉ bao gồm hình phạt mà còn bao gồm việc bị kết án, bị áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và mang án tích.
Theo quan điểm của mình, tác giả đồng tình một phần với quan điểm của TS. Trần Thị Quang Vinh và cho rằng tình tiết giảm nhẹ không chỉ là những tình tiết được quy định tại BLHS 2015 [^5^] mà còn có thể là các tình tiết khác trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, tác giả không đồng tình ở một điểm khi TS. Trần Thị Quang Vinh cho rằng các tình tiết giảm nhẹ này có ý nghĩa giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Bởi vì, việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ của một vụ án hình sự chỉ làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội mà không phải là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đó.
Xem thêm : Tội phạm tham nhũng theo Bộ Luật Hình sự năm 2015
Từ đó, có thể định nghĩa: “Các tình tiết giảm nhẹ là những tình tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự, phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Giá trị giảm nhẹ của các tình tiết này tùy thuộc vào mức độ, phạm vi, tác động của chúng trong từng vụ án hình sự”.
1.2. Những điểm mới của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong BLHS
Có thể thấy, BLHS 2015 đã có nhiều thay đổi về chính sách hình sự so với BLHS năm 1999 sửa đổi năm 2009. Tuy nhiên, quy định về các tình tiết giảm nhẹ không có sự thay đổi. BLHS 1999 chỉ có 18 tình tiết giảm nhẹ, trong khi BLHS 2015 đã bổ sung thêm 4 tình tiết mới tổng cộng là 22 tình tiết giảm nhẹ [^6^].
Một số điểm mới của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong BLHS 2015 bao gồm:
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điểm đ khoản 1 Điều 51)
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (điểm l khoản 1 Điều 51)
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (điểm p khoản 1 Điều 51)
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng (điểm x khoản 1 Điều 51)
2. Các tình tiết giảm nhẹ mới được quy định trong BLHS
2.1. Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điểm đ khoản 1 Điều 51)
Đây là trường hợp người phạm tội có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng lại sử dụng vũ lực, gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết [^6^]. Để xác định được việc gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội cần thoả mãn quy định tại BLHS, tức là việc bắt giữ người phạm tội bằng cách sử dụng vũ lực, gây thiệt hại cho họ là hành vi phù hợp với lợi ích xã hội, không chỉ giúp cơ quan nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội mà còn có tác dụng phòng ngừa phạm tội lại [^8^]. Việc gây thiệt hại trong trường hợp bắt giữ người phạm tội sẽ được loại trừ trách nhiệm hình sự và không được coi là tội phạm.
Việc sử dụng vũ lực gây thiệt hại khi bắt giữ người vượt quá mức cần thiết vẫn bị coi là tội phạm, tuy nhiên người gây thiệt hại này sẽ được coi là một tình tiết giảm nhẹ. Thiệt hại có thể là thể chất, tài sản hoặc tinh thần, nhưng phải có mối quan hệ nhân quả trực tiếp đối với hành vi dùng vũ lực khi bắt giữ người phạm tội [^13^].
2.2. Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS 2015)
Đây là trường hợp khi thực hiện tội phạm, người phạm tội đang trong tình trạng không đầy đủ nhận thức về hành vi phạm tội [^14^]. Tình trạng này có thể là do sử dụng rượu hoặc các chất kích thích mạnh dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức, nhưng không phải do lỗi của người phạm tội [^15^]. Tình tiết này được hiểu là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức độ giảm nhẹ sẽ phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hành vi của người phạm tội.
2.3. Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (điểm p khoản 1 Điều 51)
Tình tiết giảm nhẹ này áp dụng cho người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng [^17^]. Để xác định mức độ khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, cần có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y [^18^].
2.4. Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (điểm x khoản 1 Điều 51)
Xem thêm : Vụ án hành chính là gì? Thụ lý vụ án hành chính được quy định như thế nào?
Tình tiết này áp dụng cho người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ [^20^]. Tuy nhiên, quy định này còn gây ra nhiều tranh luận vì không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và làm giảm vai trò giáo dục và phòng ngừa tội phạm của hình phạt. Tác giả đề nghị bổ sung các vấn đề cụ thể để đảm bảo chính sách khoan hồng của Nhà nước và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện
Từ những điểm chưa rõ và bất cập về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS 2015, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.
Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Hiện nay, thiếu quy định rõ ràng dẫn đến khó xác định việc gây thiệt hại có được coi là vượt quá mức cần thiết hay không. Cần có một văn bản chung để hướng dẫn cụ thể trong quá trình xét xử.
Thứ hai, cần làm rõ về phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra. Cần quy định cụ thể và đưa ra hướng dẫn về việc áp dụng tình tiết này để đảm bảo tính nhân đạo và tránh sự chung chung trong quy định.
Thứ ba, cần có sự hướng dẫn của các nhà làm luật về phạm tội của người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Cần đưa ra quy định rõ ràng về việc áp dụng tình tiết này để đảm bảo tính công bằng và tránh sự hiểu sai về quy định.
Thứ tư, cần bổ sung và làm rõ về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ. Cần xem xét và giải quyết các trường hợp đặc biệt để đảm bảo tính công bằng và nhân đạo trong áp dụng tình tiết giảm nhẹ.
Kết luận, bài viết đã chỉ ra những điểm chưa rõ và bất cập về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS 2015. Tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất và tuân thủ nguyên tắc nhân đạo.
Nguồn: https://luatsutuan.net
Danh mục: Kiến thức luật sư