Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015

Rate this post

Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã được sửa đổi và bổ sung một số điều trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Những thay đổi này đã được Quốc hội thông qua vào ngày 20/6/2017. Nhằm thích ứng với yêu cầu xử lý tội phạm hiện đại, đã có những điều chỉnh mang tính cụ thể và phù hợp với thực tế. Hãy cùng tìm hiểu chi tiết về những thay đổi mới này.

Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo đạo luật mới

Theo Điều 175 của Luật số 12/2017/QH14, tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã được sửa đổi và bổ sung nhằm củng cố quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những đối tượng gây tội phạm này. Có những điểm mới quan trọng như sau:

Thay đổi về trường hợp và giá trị tài sản

Khoản 1 của Điều 175 đã bỏ đi tình tiết “hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” và cụ thể hóa thêm trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 4.000.000 đồng nhưng “tài sản đó là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”. Điều này giúp tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm khi giá trị tài sản bị thiệt hại nhỏ, nhưng đối tượng vẫn phạm tội. Bỏ tình tiết “hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” cũng giúp đơn giản hóa quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Hành vi khách quan của tội phạm

Khoản 1 của Điều 175 cũng đã được sửa đổi để bao gồm dấu hiệu “dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Điều này mang tính chất rõ ràng hơn và phù hợp với thực tế.

Truy cứu trách nhiệm hình sự

Khoản 1 của Điều 175 đã xây dựng lại căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người đã bị kết án trước đó về tội chiếm đoạt tài sản và tiếp tục phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Theo đạo luật mới, những người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu tiếp tục phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc một trong những tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Luật hình sự. Điều này giúp các cơ quan tố tụng áp dụng điều luật một cách chính xác trong thực tế.

Điều chỉnh về hình phạt

Khoản 2 của Điều 175 kế thừa quy định của Điều 175 trong BLHS 2015 về việc bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”. Đồng thời, đạo luật mới cũng đã bổ sung tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” và “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong khoản 2 của Điều 175. Những điều chỉnh này nhằm tăng cường hình phạt và trừng trị đối với những người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Các thay đổi khác

Điều 175 cũng đã bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong khoản 3 và khoản 4. Ngoài ra, khoản 5 của Điều 140 trong BLHS 1999 quy định mức hình phạt “bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm” có thể áp dụng đồng thời với hình phạt “bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo Điều 175 Luật số 12/2017/QH14, chỉ được áp dụng một trong hai hình phạt bổ sung này, nhằm thể hiện tính nhân đạo hơn với người phạm tội.

Thay đổi về hình phạt chính

Điều 175 Luật số 12/2017/QH14 đã có những thay đổi về hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong khoản 1, khoản 3 và khoản 4 so với BLHS 1999. Cụ thể, tại khoản 1, mức hình phạt tù tối thiểu đã được nâng từ “ba tháng” lên “sáu tháng”. Tại khoản 3, mức hình phạt tù đã được giảm từ “từ bảy năm đến mười lăm năm” xuống còn “từ năm năm đến mười hai năm”. Cuối cùng, tại khoản 4, mức hình phạt tù đã được giảm từ “từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc chung thân” xuống còn “từ mười hai năm đến hai mươi năm” và không còn án chung thân.

Khung hình phạt

Điều 175 Luật số 12/2017/QH14 cũng có sự điều chỉnh trong khung hình phạt. Khoản 2 của Điều 140 trong BLHS 1999 quy định mức hình phạt “từ hai năm đến bảy năm” không có khoảng giao thoa với khoản 3 của Điều 140, quy định mức hình phạt “từ bảy năm đến mười lăm năm”. Trong khi đó, khoản 2 của Điều 175 Luật số 12/2017/QH14 quy định mức hình phạt “từ hai năm đến bảy năm” có khoảng giao thoa với khoản 3 của Điều 175 quy định mức hình phạt “từ năm năm đến mười hai năm”.

Đó là những điểm mới và những thay đổi quan trọng trong tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Luật số 12/2017/QH14. Những điều chỉnh này giúp tăng cường quyền lợi cho người bị hại và đảm bảo rằng hình phạt được áp dụng chính xác và công bằng. Nếu bạn cần tư vấn thêm về vấn đề này, hãy liên hệ với Luật Sư Tuấn để được hỗ trợ.

Related Posts

Thực đơn: Những điều cần biết về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Có thể bạn quan tâm ‘Che giấu tội phạm’ và ‘Không tố giác tội phạm’ theo Bộ luật Hình sự 2015 Tìm hiểu Nội dung Điều 57…

Các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra hình sự

Có những trường hợp mà cơ quan điều tra sẽ ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra hình sự. Hãy cùng tìm hiểu…

Vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 51 BLHS

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề vướng mắc khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo…

Cần có hướng dẫn cụ thể về áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Quý vị luật sư có biết rằng khi xét xử vụ án đánh bạc tại một quán vịt cỏ ở thành phố Y, tỉnh V vào ngày…

Tìm hiểu về Biện pháp khiển trách theo Điều 93 BLHS năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017)

Đầu tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về biện pháp khiển trách và cách nó được áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội….

Phần mềm hợp đồng điện tử iContract – Sự tin dùng của nhiều DN FDI

Nghị định 125/2020/NĐ-CP ban hành ngày 19/10/2020 đã đặt ra quy định mới về mức phạt chậm nộp thuế TNCN (thu nhập cá nhân) và tăng tiền…